Thứ Tư, 18 tháng 12, 2013

Những mảnh đời xa hay hay xứ.

Rời ngôi trường Đại học Tổng hợp Praha có lịch sử lâu đời

Những mảnh đời xa xứ

Dẫn chúng tôi qua cây cầu cạn Nuselský - một trong những cây cầu lớn nhất của Séc giữa lòng Praha.

Chuyện dông dài. Ông Thắng đã dịch một số tác phẩm văn chương Việt Nam ra tiếng Đức và trái lại. Theo lời anh Thiết. Và phong cách làm việc nghiêm túc. Nhất là khi các cửa hàng tạp hóa nhỏ của người Việt chiếm ưu thế cạnh tranh về giá. Anh mang thực phẩm theo người để hạn chế tiêu dọc đường.

Ông học Ngữ văn ở Đại học Tổng hợp Leipzig (thuộc Cộng hòa dân chủ Đức cũ) từ năm 1967. Biết đoàn khách toàn là nhà báo. Anh Thiết liền cho biết.

Như xe hơi Skoda. Trọng điểm thương nghiệp Sapa giống như nhiều khu chợ ở Việt Nam. Nghèo nên cũng có lúc. Ông là một trong số hàng vạn sinh viên Việt Nam được Liên Xô và các nước Đông Âu cũ giúp đào tạo theo con đường giữa hai Chính phủ. Đi theo nhiều đoàn của Chính phủ. Hy vọng về những người Việt chúng ta. Các thương gia Việt đã nộp gần 700 triệu ko-run (tiền Séc).

Chiếc đồng hồ thiên văn có chú gà trống bằng vàng gáy vang sau mỗi tiếng đồng hồ với 12 vị tông đồ lần lượt đi qua ô cửa nhỏ trên tháp tòa thị chính là độc nhất vô nhị.

Nhờ “trận mưa vàng” khi Séc mới chuyển đổi chính thể. Thực phẩm. Mỗi năm. Vẫn là “thân cò lặn lội”. Sinh viên mình ở Liên Xô và Đông Âu cũ. Cái đẹp của nhà mình. Mà sao tôi lại hình dung ra những thân cò lặn lội kiếm ăn đêm trên đồng ruộng quê nhà. Như sức lao động. Vì nhiều lẽ. Tôi có cảm giác như mình trở lại thời sinh viên ở Matxcơva. Sự hòa đồng với người dân bản xứ.

Bên cạnh số bà con cần lao xuất khẩu ở lại phải lăn lưng ở những khu chợ người Việt. Tác phong công nghiệp.

Người nghèo đành hạn chế đi chợ. May còn quán cơm Sen của người Việt vẫn sáng đèn đợi khách. Dù ở trong nước hay đang làm việc và sinh sống ở nước ngoài. Nhiều mùa thu đã trôi qua. Dù có ở trời Âu. Cứ ngỡ đây là một tòa lâu đài. Anh Đỗ Kiến Thiết và tác giả bài viết.

Một thời kỳ dài nơi đây rất sầm uất. Là “soái” trong việc kiếm tiền. Không phải là “tướng”. Rồi chuyển về Bộ Công thương. Về nước. Nhờ có sự đoàn luyện thường xuyên. Hiện thời ở Đức. Nghỉ hè ngắn ngủi. Học phí. Chủ nhật. Trông cái cổng bên ngoài với những bức tượng bằng đồng cổ kính.

Mà người Việt mình quen gọi là Quảng trường Con gà. Tuy cầu mới khánh thành năm 1973. Vitus có lịch sử hơn năm trăm năm. Đoàn cán bộ cảu VTV trong chuyến công tác tại Đức. Hay buôn bán nhỏ thì người có bằng cấp đại học sang Đức sinh sống khá nhiều. Anh Thiết vốn là cán bộ ngành xây dựng ở Việt Nam.

Bây chừ Praha đứng thứ 9 về thu nhập trên đầu người trong khối các thủ đô Liên minh Châu Âu và đứng tốp đầu trong số các nước Đông Âu cũ.

Thường chỉ có một. Anh chũm chiều khách. Ở nhiều cương vị khác nhau. Với mức lương cao hơn hẳn so với lương của một giám đốc người Đức thường nhật.

Rời những mộng mơ giữa thế giới vàng son của các ông hoàng bà chúa. Cộng đồng người Việt đã đóng góp cho Nhà nước Cộng hòa Séc những khoản ích không nhỏ. Quần áo sang bán rau quả. Trong hơn nửa thế kỷ qua. Có gì đâu.

Ông Thắng phải “cày ngày. Nghèo thì phải chịu thương chịu khó. Về dịch vụ. Ôn lại chuyện xưa.

Đoàn chúng tôi trở về trọng tâm thương nghiệp Sapa. Năng động - đó là những gì ông Thắng đoàn luyện và có được từ thời sinh viên. Hàng tiêu dùng thiếu hụt. Giỏi giang và nghị lực của nhiều người Việt mình ở nước ngoài. Mà Praha cuộn mỗi năm mấy chục triệu du khách và xứng danh là di sản văn hóa thế giới. Anh sang Séc năm 1991 vì có người nhà ở đó. Năm 2010. Làm việc nhiều năm ở Đức.

Còn người giàu thì họ vào siêu thị mua hàng hiệu mất rồi. Chẳng hiểu sao người Séc bỗng nhiên không ăn tiêu nữa. Dựa vào trí óc và chuyên môn được đào tạo để kiếm sống. Trò chuyện nay. Sẵn sàng gửi tiền đóng góp vào Quỹ “Trái tim cho em” ở quê nhà. Các khoản thuế. Ông Thắng có công ty Dịch thuật và Tư vấn doanh nghiệp cho khách hàng Việt-Đức.

Phần đông là công nhân lao động xuất khẩu. Những khu phố gần trọng điểm này chỉ toàn ông bà già về hưu trụ lại. Nhà máy có tour cho khách tham quan dây chuyền sản xuất bia và một quán bia cổ dưới tầng hầm. Ông Thắng xin nghỉ hưu rồi sang Đức làm Giám đốc kinh doanh cho một doanh nghiệp Đức. Gần đó là Vườn Thượng uyển và Nhà thờ St. Chừng độ chịu sức ép và cả sự linh hoạt. Ở đó có mọi thứ. Ông Nguyễn Đức Thắng.

Giở mẹo trốn thuế. Mà vốn tiếng Đức của ông Thắng ngày càng đa dạng và phong phú. Nhưng giờ kinh tế khó khăn.

Chính nhờ những đợt làm thêm dựa vào chuyên môn ấy. Coi tổ quốc định cư như quê hương thứ hai của mình cũng là một nguyên tố thuyết phục. Với trình độ tiếng Đức tốt. Như những vị chủ nhà muốn khoe với khách về cái hay.

Dịch vụ. Chúng tôi tới Praha thì một góc thành phố đã chìm vào giấc ngủ. Số sinh viên không nhiều. Nhất là lúc mới sang. Tiếng Anh là ngôn ngữ phổ quát thứ hai sau tiếng mẹ đẻ. Ở Đức lại khác. Nhất là với những bà con thuê cửa hàng

Những mảnh đời xa xứ

Cổ kính. Nhưng nó đã có trong quy hoạch thành thị trước đó 200 năm. Người bản xứ bán hàng đến 6 giờ tối. Lại hiện lên ký ức những ngày tháng mùa đông lần mò đi các ký túc xá công nhân mua hàng giá cao để chuẩn bị cho thùng hàng về nước của nhiều cán bộ.

Người thường ngày như anh cũng đã có được căn hộ chung cư riêng để ở. Nên họ ngủ sớm lắm. Bán giá rẻ. Lúc đó cũng giống như ở nhiều nước Đông Âu khác. Quả là đáng khâm phục so với cánh sinh viên ngữ văn ở Nga chúng tôi. Ông được tham dự Hội đồng xét cấp chứng chỉ cho các phiên dịch viên cấp tuyên thệ của Đức. Bớt đi cái “lặn lội thân cò” và có thể ngẩng cao đầu hội nhập bằng trí tuệ và sức lực của mình.

Cày đêm”. Sự thận trọng và cầu thị trong công tác thông dịch của ông khiến cả đoàn cán bộ chúng tôi kính nể. Sự chuyên cần. Sau những chuyến thăm quan. Nó là một trong ba chiếc đồng hồ thiên văn học thượng cổ nhất trên thế giới và là chiếc duy nhất vẫn còn hoạt động cho đến hiện nay.

Công trường theo kiểu cần lao tuỳ thuộc. Thấy khách du lịch có ý so sánh mức sống của người Đức và người Séc. Góp phần giúp ích cho quê nhà và cho quê hương thứ hai. Nhiều người Việt tranh thủ dịp đưa hàng từ các nước châu Á sang.

Ông còn viết truyện và kịch bản phim… Vốn hiểu biết. Tùng tiệm của người Việt. Theo chủ toạ Hội người Việt Nam tại Séc Hoàng Đình Thắng. Ông dự dịch cabin cho nhiều hội nghị quốc tế tại Đức và châu Âu.

Để hy vọng về mai sau tươi sáng của đất nước. Nhưng những người như ông Nguyễn Đức Thắng đã tự khẳng định ở xứ người bằng trí não và học thức của mình. Anh Thiết kể cho chúng tôi với giọng nhớ tiếc về những thương hiệu nổi tiếng của Tiệp Khắc.

Rời những quảng trường và lâu đài nguy nga. Nhưng anh vẫn chịu khó lặn lội làm ăn. Ông lại dùng vốn liếng đó để nuôi dưỡng niềm đam mê của mình là văn chương.

Từng chiếc cặp sách. Xe đi qua những tòa nhà cổ có tuổi đời vài trăm năm. Có bà con mình. Nhiều chủ gian hàng phải chuyển từ bán vải. Các đối tượng này muốn hành nghề đều phải qua rà trình độ và phải tuyên thệ trước Tòa án. Chính nhờ tầm nhìn đó. Đi đêm về hôm. Anh Đỗ Kiến Thiết - người dẫn đoàn cán bộ chúng tôi đi du lịch theo tour dịp cuối tuần - đã kể nhiều chuyện về cuộc sống của bà con mình ở Séc.

Riêng tiền thuế. Để bạn xác nhận người Việt là một dân tộc thiểu số trong cộng đồng các dân tộc ở Séc. Tìm và cung cấp thông báo đủ loại. Còn người Việt mình bán đến 10 giờ tối. Tiệp Khắc thay đổi chính thể.

Người thông ngôn cho đoàn cán bộ VTV đi học về quản lý truyền thông ở Cộng hòa liên bang Đức là một tỉ dụ. Chủ toạ Quốc hội.

Vì giá cả cứ nối đuôi nhau tăng giá. Nhưng ông Thắng cũng giỏi tiếng Anh. Sau thời kỳ đổi thay chính thể đã về tay người nước ngoài. Vì số sinh viên ở lại sau tốt nghiệp không nhiều. Là người đa tài. Nơi có những chàng hiệp sĩ ra tay cứu các quí cô khỏi sự quấy rối của những kẻ say sưa.

Ông Nguyễn Đức Thắng được cả phía Đức và phía Việt Nam tôn trọng. Chuyên nghiệp. Họ phải đi từ 4 giờ sáng tới 10 giờ khuya và mở cửa cả chủ nhật để tăng thêm một tí thu nhập. Anh Thiết tự hào kể rằng. Cái không khí cổ xưa với những vại bia tươi hàng lít và cách bài trí. Sinh viên Việt Nam lại trở về với những kỳ thi liên hồi không ngủ và những buổi chiều “đi cửa hàng” săn từng mảnh vải hạ giá.

Thấy đoàn khách phấn chấn. Praha sáng mùa hè thật đẹp với những hàng cây phong trên những con đường lát đá dẫn vào khu vực Thành cổ Praha. Nhất là khi qua những nước đắt đỏ. Cái số ít đó đã có lúc khiến một số người Séc phản ứng.

Ông Thắng công tác ở Bộ Ngoại giao. Bàn là. Ông Thắng đã từng dịch cho Thủ tướng. Hàng ăn hầu hết đã đóng cửa. Đa phần là những “thân cò lặn lội”. Kiếm lãi từng xu. Nay là Phủ Tổng thống.

Anh Thiết ý nhị nhắc đoàn mời ông lái xe người Séc vào nghỉ ngơi. Mở mang vốn kiến thức đa ngành. Hai người Việt qua được vòng rà này. Phải giải quyết dứt điểm các hiệp đồng trước Noel. Sau khi bức tường Berlin sụp đổ. Dịch tiếng Đức. Chúng tôi đến Quảng trường Phố cổ. Vì đối với người Đức. Rồi tranh thủ bán cả ngày thứ 7. Anh Thiết tiết lộ rằng. Trên con đường từ Munich sang Cộng hòa Séc.

Để gửi về nhà đỡ đần bác mẹ. Lệ phí. Người Việt ở đây hiện có khoảng 7-8 vạn. Đa phần chỉ đi làm thêm trong nhà máy. Nhất là những dịp cuối năm. Ở Séc rất ít người Việt làm việc trong các công ty của người bản xứ. Chuyển sang kinh dinh thực phẩm. Quán tên Sen. Bà con thở than. Đội ngũ này đã đóng góp sức mình cho công cuộc xây dựng đất nước bằng nhiều phương thức khác nhau. Mà lại rất nặng nhọc.

Trên con đường vào tỉnh thành công nghiệp Plzen. Uống bia cùng đoàn cho thân tình. Từ năm thứ hai đại học ông đã đủ khả năng đi dịch cho các sự kiện lớn của người Việt ở Cộng hòa dân chủ Đức hồi ấy.

Kiến trúc có nhiều nét tương đồng với phố cổ Matxcơva. Rồi mở đủ các loại cửa hàng. Ở quê nhà cũng như nơi xa xứ. Dĩ nhiên là tiền nào của ấy.

Chẳng mấy chốc xe đã đưa đoàn đến nhà máy bia nức tiếng ra đời từ năm 1842 ở Plzen. Các nhà máy cơ khí và chế tác máy công nghiệp CKD và khoảng 50% các tòa nhà đẹp.

Khi Tây đi nghỉ cuối tuần. Chuyện của họ là câu chuyện của cả mấy thế hệ vượt lên gieo neo để tồn tại và khẳng định mình. Anh Thiết cảm thấy kiêu hãnh và vui hơn. Câu chuyện của ông Thắng khiến tôi khôn cùng thán phục ông và kiêu hãnh vì sự sáng dạ.

Ông Thắng từng là Phó Chủ tịch Hội doanh nghiệp Việt Nam tại Đức và Tổng biên tập báo Doanh nghiệp của Hội. Phục vụ dân dã như kéo du khách ngược trở về thế kỷ XIX.