Trong khi đó, một số lượng khá lớn khách hàng vay vốn tín dụng đầu tư (TDĐT) tại VDB là các DN hoạt động trong các lĩnh vực căn bản như: Xây dựng, sản xuất kinh dinh vật liệu xây dựng, kinh dinh chuyển vận, kinh dinh hàng nông sản xuất khẩu… là những lĩnh vực gặp nhiều khó khăn nhất
Bốn là, tiếp tháo gỡ khó khăn cho DN bằng việc cơ cấu lại nợ vay như điều chỉnh mức trả nợ, kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ, khoanh nợ… tùy theo đặc điểm tình hình cụ thể của từng dự án, khách hàng. Tài sản thế chấp chính là các tài sản thuộc dự án chính yếu là nhà xưởng, máy móc thiết bị… thực tế thường là những tài sản có tính thanh khoản không cao, việc kê biên để làm thủ tục xử lý tài sản đảm bảo trong thực tiễn không hề dễ dàng đối với VDB nên khách hàng ít phải chịu áp lực về việc này… từ đó dễ dẫn đến việc khách hàng chây ì, ỷ lại và chấp hành không đầy đủ nghĩa vụ đối với VDB.
Bài đăng trên tùng san Tài chính số 8 - 2013. Biện pháp gần như độc nhất hiện giờ mà VDB có thể chủ động thực hiện là ra văn bản đề nghị khách hàng chấp hành trách nhiệm trả nợ, thông báo chuyển nợ quá hạn và tính lãi phạt quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn theo quy định tại hiệp đồng tín dụng.
Giải pháp nâng cao hiệu quả thu hồi nợ Trên cơ sở phân tách các duyên cớ nêu trên, để góp phần nâng cao hiệu quả công tác thu hồi nợ TDĐT của VDB trong giai đoạn hiện, xin đề xuất một số giải pháp: Một là, cần sớm hoàn thiện hệ thống tính sổ bảo đảm chóng vánh, thuận tiện, kịp thời để góp phần tăng sự chủ động kiểm soát dòng tiền của dự án, quản lý được tài chính của khách hàng. Trong thời gian qua mặc dầu công tác đào tạo, tập huấn đã được VDB quan hoài, tăng cường.
Ảnh minh họa. Chả hạn, khi VDB rà soát, xác nhận được việc khách hàng dùng nguồn thu từ dự án để trả nợ cho tổ chức tín dụng khác, hoặc sử dụng sai mục đích không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì VDB có quyền thực hành các biện pháp như: kết hợp với các nhà băng và tổ chức tín dụng có liên tưởng phong tỏa tài khoản của khách hàng; Cử cán bộ tới đơn vị khách hàng để kiểm soát dòng tiền hoạt động sản xuất kinh doanh của dự án; Có thể nghiên cứu áp dụng biện pháp cưỡng chế thu như việc cưỡng chế thu thuế của Nhà nước… Ba là, cho phép VDB thành lập một công ty có chức năng bán hàng cho các khách hàng có dự án vay vốn tín dụng đầu tư đang phát sinh nợ quá hạn tại VDB do gặp khó khăn về việc tiêu thụ hàng hóa và thu hồi công nợ khách hàng hoặc theo đề nghị của chủ đầu tư.
Từ đó thêm điều kiện thuận lợi để yêu cầu hoặc thỏa thuận với khách hàng mở account tại VDB và doanh thu từ dự án chỉ được chuyển độc nhất về VDB. Công ty này có các chi nhánh nằm tại các chi nhánh của VDB và sử dụng cán bộ của chi nhánh VDB kiêm nhiệm để điều hành và quản lý. Không ít DN phải đối mặt với tình trạng hoài đầu vào tăng cao, tiêu thụ hàng hóa đình trệ, hàng tồn kho nhiều và càng sinh sản càng thua lỗ.
Trước thực trạng này, Chính phủ đã ban hành hàng loạt chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và nhiều giải pháp để chống lạm phát, trong đó có việc thắt chặt đầu tư công, nhiều dự án lớn phải giãn tiến độ hoặc dừng khai triển… Điều này đã làm cho doanh số của hoạt động xây dựng bị sụt giảm mạnh, nhiều DN hoạt động trong các lĩnh vực sinh sản kinh dinh có hệ trọng bị ảnh hưởng đáng kể… Mặt khác, cơ chế giám sát và quản lý của Nhà nước đối với các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước còn nhiều hạn chế, nhiều đơn vị yếu kém trong quản lý tài chính, hoạt động sản xuất kinh dinh bị thua lỗ, thất thoát vốn, làm giảm hoặc mất khả năng trả nợ vay vốn TDĐT tại VDB.
Việc đề nghị hay thỏa thuận khách hàng chuyển doanh thu bán hàng về trương mục tiền gửi mở tại VDB là không thực tiễn, thành thử khó kiểm soát được dòng tiền tài khách hàng.
Đến nguyên nhân chủ quan Bên cạnh những chuyển biến tích cực và những điểm sáng trong phát triển, thực tế cũng cho thấy, đến nay hệ thống tính sổ của VDB chưa đáp ứng được một cách đầy đủ và kịp thời các nhu cầu thanh toán của khách hàng. Việc quản lý hoạt động sinh sản kinh doanh thực tế của dự án và tài chính của khách hàng cũng gặp nhiều khó khăn do chúng ta thường phải căn cứ vào số liệu do khách hàng cung cấp, việc cung cấp số liệu thường bị trễ và độ tin tưởng không cao.
Biện pháp này sẽ góp phần tương trợ cho DN vượt qua khó khăn, mặt khác sẽ có lợi về dài hạn cho VDB. Mặt khác, các dự án vay vốn tại VDB thường được hưởng các ưu đãi như: Lãi suất vay thấp, tài sản thế chấp chính yếu là tài sản được hình thành từ chính vốn vay… Những ưu đãi đó có thể lại gây ra những bất lợi trong quá trình thu hồi và xử lý nợ vay.
Ngoại giả, một số khách hàng có thái độ chây ì, không hợp tác trong việc hoàn nợ vay vốn TDĐT, thậm chí nảy tư tưởng chiếm dụng để sử dụng vào các mục đích khác, gây khó khăn cho VDB thu hồi nợ vay. Trường hợp khách hàng của VDB vay vốn tại nhiều tổ chức tín dụng, khi việc cân đối tài chính gặp khó khăn, để bảo đảm ích lợi kinh tế họ sẽ ưu tiên trả nợ cho các tổ chức tín dụng khác trước khi thực hành trách nhiệm với VDB.
Việc tiếp cận nguồn vốn ngắn hạn tại các tổ chức tín dụng khó khăn vì không có tài sản thế chấp.
Hiện nay, các chế tài mà VDB đang vận dụng đối với khách hàng vay vốn còn thiếu và chưa đủ mạnh.
Tuy nhiên, việc đào tạo, trang bị các kỹ năng, cảnh huống thu hồi và xử lý nợ cần thiết cho hàng ngũ cán bộ tín dụng chưa được khai triển một cách đầy đủ và thẳng tính, cán bộ khi tác nghiệp phải tự mày mò nghiên cứu áp dụng phương pháp của các ngân hàng thương mại vào công việc của mình, nhưng do sự khác biệt về tính chất hoạt động giữa hai loại hình ngân hàng này nên việc áp dụng không phải lúc nào cũng mang lại hiệu quả.
Trong trường hợp khách hàng cố ý không trả nợ vay, chiếm dụng vốn để dùng vào mục đích khác, hầu như chưa có biện pháp nào hữu hiệu để chủ động ngăn chặn. Đồng thời, khuyến khích cán bộ nhiệt huyết, gắn bó với công việc, phát huy sáng kiến, nâng cao hiệu quả công tác thu hồi và xử lý nợ vay.
Năm là, tăng cường tập huấn các kỹ năng, nghiệp vụ chuyên sâu cho các cán bộ tín dụng trong công tác thu hồi và xử lý nợ vay tín dụng đầu tư để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Ngoài ra, những tồn tài tại trên còn bắt nguồn từ các nguyên nhân bất khả kháng như: thiên tai, địch họa, chiến tranh, cháy nổ, khách hàng không may bị chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự… làm ảnh hưởng lớn đến hoạt động sinh sản kinh dinh và khả năng trả nợ của khách hàng. Bên cạnh đó, khả năng quản trị còn yếu trong quản lý sản xuất kinh dinh đối với các dự án đầu tư thuộc một số lĩnh vực ngành nghề mới… làm giảm hiệu quả sinh sản kinh dinh và ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tính sổ của DN.
Khi một dự án nảy sinh nợ quá hạn trong một thời gian nhất thiết, VDB có thể đề nghị chủ đầu tư trả nợ bằng việc xuất bán sản phẩm của dự án cho Công ty như đối với một Đại lý cấp I. Hai là, tiếp tục nghiên cứu tham vấn cho các bộ, ngành liên can và Chính phủ bổ sung, hoàn thiện các chế tài đủ mạnh, nâng cao vị thế của VDB để quá trình triển khai thực thi nhiệm vụ, VDB có đầy đủ phương tiện trong việc giải quyết những cảnh huống nghiệp vụ nảy có tính khả thi cao.
Mặt khác, các tổ chức tín dụng cũng khe khắt hơn trong việc lựa chọn khách hàng để cho vay vốn, một số khách hàng bị thiếu vốn lưu động cho hoạt động sinh sản kinh doanh, khó có thể tăng được sản lượng sinh sản và tiêu thụ, không đủ khả năng trả nợ cho VDB theo hiệp đồng tín dụng đã ký là một trong những nguyên cớ cơ bản trong bối cảnh hiện giờ.
Nguồn: internet Từ căn nguyên khách quan Cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu thời kì qua đã tác động không nhỏ đến hoạt động kinh tế trong nước, trong đó ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sinh sản kinh doanh của doanh nghiệp (DN).
Sáu là, sớm triển khai công tác cho vay vốn lưu động nhằm tháo gỡ khó khăn về vốn cho các khách hàng vay vốn tín dụng đầu tư tại VDB, thúc đẩy việc phát triển sinh sản kinh doanh của khách hàng, từ đó tạo nguồn trả nợ vốn tín dụng đầu tư cho VDB.