Chủ Nhật, 25 tháng 8, 2013

Mối quan mới cập nhật hệ giữa an toàn ngành nhà băng và tăng trưởng kinh tế.

Theo Hoenig, vốn cổ phần, giống như nợ, là nguồn kinh phí để đầu tư và kiếm lợi nhuận

Mối quan hệ giữa an toàn ngành ngân hàng và tăng trưởng kinh tế

Quy định mới về tỷ lệ đòn bẩy này chính là một cách hữu hiệu buộc các nhà băng phải gia tăng đáng kể lượng vốn mà mình nắm giữ, qua đó tăng cường khả năng chịu đựng các cú sốc tài chính và nối duy trì hoạt động cho vay.

Sẽ thật là vô nghĩa khi người dân phải mạo hiểm tiền gửi của mình cho một ngành ngành công nghiệp ngân hàng có đòn bẩy lớn song rủi ro cao, ông Thomas Hoenig nhận định.

Tuy nhiên, các nhà băng lớn nhất lại ra sức chống đối những đề nghị này bằng cách đưa ra những lý do mang tính hù dọa công chúng. Một số nhà băng còn viện lý do rằng họ sẽ buộc phải đầu tư vào những tài sản rủi ro hơn để bù đắp những hậu quả từ việc phải nắm giữ nhiều vốn cổ phần cao hơn.

Thực tế, các ngân hàng có vốn dày hơn sẽ có khả năng duy trì hoạt động cho vay tốt hơn trong suốt quá trình khủng hoảng - và đây mới là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới tốc độ phục hồi của nền kinh tế.

Khi khủng hoảng nổ ra, vốn cổ phần sẽ giúp tiếp nhận thiệt hại và giảm thiểu rủi ro tổng thể cho ngân hàng. Tại thời khắc đó, các đề nghị về vốn còn khá lỏng lẻo và các ngân hàng có thể thoải mái dùng nợ để mua bán quỹ. Điều đó sẽ khiến cả thế giới nối gót nước Mỹ và nền kinh tế toàn cầu một lần nữa sẽ tìm lại ánh hào quang mà nó đã có.

Theo Financial Times, đầu thế kỷ 20, mức vốn của các các tập đoàn tài chính lớn nhất thường ở mức cao hơn 15% giá trị tài sản, song đến năm 2007, tỷ lệ này giảm còn chưa đến 3% ở một số ngân hàng lớn nhất.

Vốn cổ phần còn tăng cường mức độ tin tức đối với nguồn lợi nhuận của nhà băng, qua đó hấp dẫn thêm nhiều nhà đầu tư hơn. Chấm dứt bài phân tích, Hoenig nhận định nước Mỹ đang có trong tay dịp ổn định nền tài chính bằng cách giúp các nhà băng trở nên an toàn hơn. Trái lại, trong tuổi này, các ngân hàng lớn nhất nước Mỹ chỉ có 7 đợt phát hành cổ phiếu phổ biến, một con số quá khiêm tốn, Hoenig chỉ ra

Mối quan hệ giữa an toàn ngành ngân hàng và tăng trưởng kinh tế

Hơn nữa, kể từ năm 2007, khi lãi suất xuống mức thấp kỷ lục, lượng vốn cổ phần mới của các nhà băng lại tăng gấp 18 lần so với trước, đó là chưa tính tới việc chính phủ Mỹ buộc phải bơm tiền vào các nhà băng để chống đỡ cho họ.

Tháng trước, các nhà quản lý nhà băng Mỹ đã đưa ra tiêu chuẩn vốn mới, trong đó giới hạn việc tự cấp tài chính ưng chuẩn các khoản nợ lớn của các ngân hàng lớn nhất. Lý do này hoàn toàn sai, ông Thomas Hoenig khẳng định. Nguồn FT/Dân Việt. Bên cạnh đó, khi xem xét lại các số liệu thực từ năm 1999 về mối quan hệ giữa mức độ vốn và hoạt động cho vay của 8 ngân hàng Mỹ có hệ thống toàn cầu, không có bằng cớ nào cho thấy đề nghị vốn cao hơn sẽ làm giảm khối lượng cho vay của các nhà băng trong dài hạn.

Tuy nhiên, Thomas Hoenig cho rằng chẳng có chứng cớ nào chứng minh điều đó. Kể từ năm 1980 đến 2007, rất ít bằng cớ cho thấy lãi suất cao sẽ giúp các ngân hàng tìm kiếm và cuộn vốn được nhiều vốn cổ phần hơn.

Trong giai đoạn đầu của khủng hoảng tài chính, các nhà băng châu Âu thậm chí còn dày vốn hơn cả các nhà băng Mỹ, song kể từ đó đến nay họ hoàn toàn mất khả năng cho vay cũng như chơi thể tăng trưởng. Sự gia tăng của các khoản nợ trên vốn sở hữu có thể trợ thời kích thích tăng trưởng tài sản trong ngắn hạn, song nó lại khiến các ngân hàng lớn - và nền kinh tế thực - dễ bị thương tổn hơn trước các cú sốc tài chính.

Với mỗi 1 USD tài sản và các cam kết bên ngoài bảng cân đối, các nhà băng lớn nhất được yêu cầu phải nắm giữ chí ít 6 cent, trong khi các công ty mẹ của những ngân hàng này cũng phải nắm giữ ít nhất 5 cent. Tuy nhiên, trong một bài phân tách đăng tải trên tờ Financial Times, chủ toạ nhà băng Dự trữ liên bang Kansas, ông Thomas Hoenig, cho rằng việc ép các ngân hàng lớn nhất phải nắm giữ nhiều vốn hơn sẽ có tác động xấu tới tăng trưởng kinh tế.

Lý do trước nhất và cũng là lý do được dùng nhất đó là việc gia tăng vốn chủ sở hữu sẽ buộc các nhà băng phải cắt giảm hoạt động cho vay trong ngắn hạn, do đó sẽ ức chế sự hồi phục của nền kinh tế

Mối quan hệ giữa an toàn ngành ngân hàng và tăng trưởng kinh tế

Năm 2008, khủng hoảng tài chính nổ ra, kéo theo đó là những hậu quả nghiêm trọng tàn phá thị trường việc làm và sự no đủ của nước Mỹ, đến lúc này các nhà quản lý mới vội vã tung ra hàng loạt quy định mới hòng siết chặt hoạt động dùng nợ của các nhà băng, với đích ngăn chặn từ xa các cuộc khủng hoảng tài chính na ná. Một lý do dị thường được viện ra đó là những yêu cầu về vốn sẽ tạo nên nên một sân chơi không đồng đều giữa các nhà băng Mỹ và các ngân hàng thế giới.

Thomas Hoenig cho rằng nhận thức này hoàn toàn sai trái. Điều đó chứng minh một thực tiễn rằng các ngân hàng thành công nhất về dài hạn chính là những ngân hàng nắm giữ nhiều vốn hơn và tốt hơn các ngân hàng khác.

Kinh tế Mỹ là nền kinh tế thị trường, trong đó vốn của các ngân hàng là một nguồn sức mạnh, chứ không phải là một gánh nặng, Hoenig khẳng định. Thậm chí ngay cả trong thời kỳ khủng hoảng, các ngân hàng vẫn có khả năng thu hút vốn.

Trước năm 2007, các ông chủ các nhà băng lớn nhất nước Mỹ đóng góp ít nhất 3 cent trong cổ phần chung cho mỗi đồng USD trong bảng cân đối của nhà băng. Tuy nhiên, Hoenig cho rằng các ngân hàng đang bỏ qua một thực tế, đó là các nhà chức trách sẽ vận dụng bổ sung cả những đề nghị vốn rủi ro trong Basel để bổ sung cho tỷ lệ đòn bẩy, qua đó làm giảm thiểu khả năng chênh lệch. Lấy các ngân hàng châu Âu làm ví dụ.

Chung cục, các ngân hàng lo ngại các đề nghị vốn khắt khe hơn sẽ làm giảm lợi nhuận trên vốn cổ phần của họ, qua đó làm tổn thương khả năng cuộn vốn của ngành công nghiệp ngân hàng nói chung.

Về cơ bản, những yêu cầu mới về vốn đối với các nhà băng hoàn toàn không quá nặng nề nếu so với quá cố.