So với Thỏa thuận CMIM hiện tại, quy mô của quỹ CMIM sẽ tăng từ 120 tỷ USD lên 240 tỷ USD, tăng phần cho vay khi không có chương trình vay của IMF từ 20% lên 30% và 40% tùy điều kiện cho phép, kéo dài hạn cho vay và chu kỳ hỗ trợ tổng thể. CMIM ra đời với đích cung cấp các khoản tài chính nhằm tương trợ khẩn cấp cho các nước thành viên khi gặp khó khăn về cán cân thanh toán ngắn hạn đồng thời bổ sung các thỏa thuận tài chính quốc tế.
Phó Thủ tướng giao Thống đốc nhà băng Nhà nước Việt Nam và Bộ trưởng Bộ Tài chính đồng ký kết Thỏa thuận trên với các nước ASEAN+3. Phan Hiển. Ngân hàng quốc gia Việt Nam chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các Bộ, cơ quan liên quan xây dựng kế hoạch thực hành Thỏa thuận trên ngay sau khi có hiệu lực.
Sáng kiến Chiềng Mai (CMIM) đã được ký kết từ năm 2009 và chính thức có hiệu lực từ năm 2010.
Theo đó, sẽ mở rộng khuôn khổ của Thỏa thuận CMIM, không chỉ giới hạn ở chức năng giải quyết khủng hoảng mà sẽ được bổ sung thêm chức năng ngừa khủng hoảng để tăng cường màng lưới an ninh tài chính như là một cơ chế tự vệ và củng cố niềm tin của thị trường đối với kinh tế khu vực. Thỏa thuận sửa đổi cũng bổ sung các điều khoản hiệp với chức năng ngăn ngừa khủng hoảng.
Tiếp đó, tại Hội nghị Bộ trưởng Tài chính và Thống đốc NHTW ASEAN+3 lần thứ 16 đã diễn ra tại Dehli, Ấn độ bên lề Hội nghị thường niên của nhà băng Phát triển châu Á (ADB) , các Bộ trưởng Tài chính và Thống đốc NHTW ASEAN+3 đã phê chuẩn Thỏa thuận Đa phương hóa Sáng kiến Chiềng Mai sửa đổi.
Cơ chế cho vay của CMIM được thực hiện phê duyệt các giao tế hoán đổi tiền tệ song phương giữa đồng USD và đồng bản tệ của các nhà băng Trung ương ASEAN+3.
Theo lãnh đạo cơ hòm chính và Ngân hàng Trung ương của các nước ASEAN+3, CMIM mang ý nghĩa lớn về kinh tế và chính trị của các nước ASEAN+3, diễn đạt sự cam kết hiệp tác gắn bó và chặt chẽ, đánh dấu một bước tiến đáng kể trong tiến trình hiệp tác tài chính của khu vực ASEAN+3.