Thứ Sáu, 26 tháng 7, 2013

Werner Bischof - người ghi lại cuộc sống sau Thế chiến thứ hai

Werner Bischof sinh tại Thụy Sỹ. Ông học nhiếp ảnh cùng với Hans Finsler (1891-1972, nhiếp ảnh gia và giáo viên người Đức) tại trường Nghệ thuật và Thủ công ở Zurich. Năm 1930, Bischof bắt đầu làm một nhiếp ảnh gia độc lập tại nhiều tùng san, đáng để ý nhất là làm chụp ảnh tự do cho Du Magazine - tùng san văn hóa, nghệ thuật của Thụy Sỹ vào năm 1942. Đến năm 1943, ảnh của ông được đăng lần trước tiên trên tạp chí này. Danh tiếng Bischof được thế giới biết đến vào năm 1945, khi ông công bố tư liệu về sự tàn phá của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai. Sau thành công đó, Bischof được đánh giá là nhiếp ảnh gia báo chí xuất sắc tạm bợ kỳ đó.


Khi làm việc choSwiss Relief- một tổ chức hoạt động nhằm cống hiến cho sự tái thiết lập xã hội sau chiến tranh, Bischof bắt đầu hành trình đi đến những nhà nước, bắt đầu là Ý và Hi-lạp. Với thèm khát được khám phá những vẻ đẹp thiên nhiên và con người trên khắp thế giới, ông dần dà tìm đến nhiều vùng đất mới. Bischof đã đi khắp từ Pháp đến Ru-ma-ni, từ Na-uy đến Hi-lạp trong khoảng thời kì 1945-1949. Sau những chuyến đi đến Đông Âu, Phần Lan, Thụy Điển và Đan Mạch, ông cộng tác cho các tờ báo và tập san danh tiếng gồm cóPicture Post, The Observer, IllustratedEpoca. Đến năm 1951, ông chuyển đến Ấn Độ và làm việc cho tập sanLife, sau đó là Nhật Bản và Hàn Quốc. Bischof cũng từng làm phóng viên ảnh về chiến tranh Việt Nam khi ông hợp tác với tùng sanParis Match.


Mùa thu năm 1953, Bischof đến Mỹ và thực hiện một series ảnh màu. Năm sau, khi ông đi qua Mexico, Panama rồi rút cục đến Peru dự hành trình xuyên qua dãy Andes đến rừng rậm Amazon, bi kịch đã xảy ra. Chiếc xe rơi khỏi vách đá trên núi lấy đi tính mệnh của quơ những người trên xe, trong đó có Bischof. Đó là ngày 16/05/1954, chỉ 9 ngày trước khi Robbert Capa bỏ mạng tại một nơi xa xôi ở Đông Dương. Năm 1966, Quỹ tưởng vọng ba nhiếp ảnh gia lỗi lạc gồm có Werner Bischof, Robbert Capa và David Seymour (1911-1956) được thành lập, về sau trở thành một quỹ quốc tế về nhiếp ảnh và rốt cuộc trở nên trọng điểm Nhiếp ảnh Quốc tế đặt tại New York vào năm 1974.


Werner Bischof từng là họa sĩ trước khi chuyển sang lĩnh vực nhiếp ảnh. Với hiểu biết về đồ họa, bố cục và cách sử dụng ánh sáng sẵn có trong hội họa, cùng với sự xúc động mạnh khi chứng kiến những tội ác của chiến tranh, Wener Bischof bắt đầu đạt được thành công trước hết với những ảnh tư liệu về hậu quả mà Thế chiến II để lại trên khắp châu Âu. Trong sự nghiệp nhiếp ảnh ngắn ngủi của mình, Bischof đã để lại những bức chân dung giàu xúc cảm những cuộc chiến đấu, vật lộn với cuộc sống không chỉ ở riêng sơn hà ông mà còn là những mảnh đời trên khắp thế giới.


Do chịu ảnh hưởng nhiều từ những nghệ sĩ nhiếp ảnh trường phái Hiện thực như Man Ray và Laszlo Moholy-Nagy trong thời kỳ bắt đầu công việc chụp ảnh, Bischof luôn vạch ra chi tiết những việc phải làm và cẩn thận ghi lại nhật ký. Tường tận quan sát ánh sáng, những tạo hình của thiên nhiên, những chân dung trần truồng, những hình ảnh tĩnh vật,... Từ đó ông định hình nên cái nhìn và cảm xúc cho mỗi khung hình.


Không nhất trí với sự hời hợt và thuộc tính gây giật gân của công việc làm báo, Bischof đã luôn dành đam mê cho việc trên dưới thứ tự và sự thái hoà bên trong những nét văn hóa truyền thống, dù rằng đôi khi việc ấy không làm chấp thuận những người biên tập. Thế nhưng nhìn lại thế cuộc nhiếp ảnh ngắn ngủi của ông với số lượng không nhỏ những tạp chí mà ông từng hợp tác, có thể nhận thấy công việc của ông đã được ghi nhận và đánh giá cao."Công việc này có ý nghĩa rất lớn với tôi, bởi tôi phải dành cả cuộc sống của mình để thực hành nó. Và mỗi ngày tới mang theo những ý nghĩa hoàn toàn mới, những vấn đề mới khiến mình trở thành linh động hơn".Bischof trở nên thành viên của Magnum Photos vào năm 1949, và là thành viên trước hết nếu không kể đến những người sáng lập.


Sau thành công trước hết về Thế chiến II, những bức ảnh ở Nhật Bản được coi là tác phẩm xuất sắc nhất của Bischof. Ông ham mê nền văn hóa Á châu vừa cổ kính vừa đương đại này. Ông đã hết lời ca ngợi vẻ đẹp của Kyoto trong nhật ký ghi chép của mình:"Kyoto - thành phố Nhật Bản cổ xưa duy nhất chưa bị phá hủy. Những gì tôi chứng kiến trong những ngày rút cuộc có nhẽ đủ để viết một cuốn sách, từ vẻ huyền hoặc của ngôi đền Silver pavilion, đến hình ảnh của hồ nước mọc đầy rêu, con thác rêu phong, khu vườn hoang dã nơi có bức tượng Phật bằng đá và một chậu đá để rửa tay... Có đến hàng nghìn kỳ quan nơi đây".


Werner Bichof hoạt động nhiếp ảnh vào giai đoạn hậu quả của chiến tranh còn nặng nề nhất, bởi thế mà chân dung con người và chân dung cuộc sống mà ông ghi lại phần nhiều mang vẻ tang thương, thảm kịch và ám ảnh người xem.


Một nạn nhân của vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima, 1951



Câu lạc bộ thoát y, Tokyo, 1951



Tại sân trong đền Meiji, Tokyo, 1951



Một người đàn ông đang đứng nhìn tỉnh thành đã bị phá hủy, Frankfurt, Đức, 1946


Nạn đói ở Bihar, Ấn Độ, 1951



Hậu sự của con nít, Mexico, 1954



Mexico, 2/1954



Một gia đình tị nạn người Trung Quốc, Hongkong, 1952



Nghệ sĩ múa, Ấn Độ, 1951



Tại ngôi làng San Jang Ri, Nam Triều Tiên, 1951



Hungary, 1947



Hungary, 1947



Người phụ nữ ngựa vằn, Thụy Sĩ, 1942



Ấn Độ, 1951



Ngôi mộ của lính Mỹ bị giết trong chiến tranh, Bắc Kỳ, 1952



Nữ giới cầu nguyện cho những thân ngoài trận chiến, Việt Nam, 1952



Trên chuyến tàu Sài Gòn-Nha Trang, 1952


Tại ngôi làng của người H'mong, Việt Nam, 1952



Tại ngôi làng của người H'mong, Việt Nam, 1952