Thứ Sáu, 26 tháng 7, 2013

Tin ở Hua Lạnh

Kỳ I: Một ngày cùng Hua Lạnh

Chênh vênh Hua Lạnh

Hua Lạnh là một bản biên thuỳ lọt thỏm trong rừng sâu phía Tây Bắc Sơn La, vốn là một cụm dân cư đạo toàn tòng nằm ép giữa hai dãy núi Phá Thuông và Hứa Pun, xã Nậm Lạnh, Sốp Cộp. Nếu chúng tôi không phải là phóng viên của báo Biên phòng thì khó có thể tới đây, ở lại trong bản, cùng ăn, cùng ở với bà con, thêm nữa lại có thể tham gia vào những buổi cầu nguyện linh nghiệm thường ngày của họ ở nhà thờ ngay trong bản. Con đường rừng từ trung tâm xã Nậm Lạnh đến đây quá xa xăm, lại đi dần lên cao, nằm hiểm trở trên các triền núi. Hơn 30 cây số hành trình vắng tanh không một nóc nhà, đi miết rồi mới nhìn thấy Hua Lạnh cheo leo bên sườn một dốc núi cheo leo. Bản Hua Lạnh nằm giữa sống núi đó, khí lạnh và sương phủ quanh năm vào buổi tối và sáng sớm. Chỉ vào buổi trưa, ánh nắng cường độ mạnh mới có thể lọt qua những lớp mây, bản làng rực lên một chút rồi thôi.


Một buổi cầu kinh tối ở Hua Lạnh.

Một vị cán bộ xã Nậm Lạnh cho chúng tôi biết vào chiều hôm trước rằng, chuyện người Mông theo đạo Tin lành thường thích sống ở những bản làng tách biệt với cuộc sống bên ngoài để có thể sinh hoạt đạo tự do, chính là trường hợp của bản Hua Lạnh. Nơi này như một ốc đảo không sóng điện thoại, không điện lưới, không sách báo, tivi, không chợ... Không thể đếm hết những cái không ở đây.

Vị cán bộ xã tiết lậu thêm, cho đến hiện, Hua Lạnh tồn tại một luật bất thành văn là nếu gia đình nào, cá nhân chủ nghĩa nào muốn nhập cư vào bản Hua Lạnh đều phải theo đạo. Điều này do nhóm truyền đạo và mục sư tự phong của bản quy định, vậy mà ai nấy đều chấp hành. Trong một tài liệu điều tra của UBND xã Nậm Lạnh ghi rõ: Hua Lạnh hiện có 56 hộ dân (439 khẩu) thuộc 6 dòng họ người Mông thiên cư từ Điện Biên và Thuận Châu (Sơn La) đến đây từ năm 1990 đến 2003. Điều đáng nói là hiện có 2 hộ dân theo đạo "Phúc âm đời đời kiếp kiếp" - cho đến nay vẫn chưa được thế giới coi là chính đạo. 54 hộ dân còn lại theo đạo Tin lành do nhóm đạo liên hữu Cơ đốc giáo miền Nam truyền tới và được quản lý bởi một mục sư tự phong là Sùng A Lầu, sinh năm 1984. Quờ các buổi hành lễ tại nhà thờ, các buổi truyền giáo ở Hua Lạnh đều do mục sư này điều hành.

Lặng im trên núi

Chiều xuống, Hua Lạnh lạnh tê tái. Chúng tôi ăn vội bữa cơm chiều ở tổ công tác biên phòng rồi đến nhà thờ. Rất nhiều bà con đã tập kết trong giáo đường. Ngôi nhà thờ này ngoài cây xe loan cắm trên nóc đã nghiêng vẹo thì nó giống hệt các ngôi nhà ở khác của người Mông. Điều này trình bày sự bản địa hóa tối đa có dụng ý để mang lại sự gần gũi thân thiện của những người điều hành nhóm đạo. Bên trong là hai hàng ghế băng đông nghẹt người, vẻ mặt ai cũng đờ đẫn trong bóng tối nhờ nhờ. Có những phụ nữ lặng phắc lắng tai người thuyết giáo đang nói.

Họ không gây ầm ĩ và rất ít giao tiếp với nhau, nên dường như không ai chú ý đến sự có mặt của chúng tôi trong giáo đường của họ. Ánh sáng bên trong rất yếu ớt phát ra từ hai ngọn đèn nê-ông nhỏ phía trên, nơi có đặt bục thuyết trình dành cho người chủ trì buổi lễ. Tiếng thuyết giảng và đọc kinh nguyện cầu bằng tiếng Mông phát qua chiếc loa gắn trên tường gỗ nghe rõ mồn một trong đêm tối. Cán bộ Biên phòng người Mông đi cùng dịch cho chúng tôi nghe lời thuyết giảng. Vẫn những giáo lý thường thấy kêu gọi niềm tin vào Chúa, vào thiên đường. Các giáo dân Hua Lạnh im lặng, vẻ mặt không tả cảm xúc.

Chỉ khi đến màn hát thánh ca, những hàng ghế mới chợt nhúc nhắc. Họ hát say sưa những bài thánh ca bằng tiếng Mông phiên âm La-tinh có đệm đàn organ theo lời bắt nhịp của mục sư. Ai nấy vẻ mặt giãn dần ra sau những bao tay và mỏi mệt của một ngày. Họ ra về chừng như đã trút được tâm tình sau khi hát vang những bài hát thánh ca.

Chúng tôi nán lại bên trong nhà thờ để chuyện trò với đội hát thánh ca đang ở lại tập hát. Có 4 phụ nữ còn rất trẻ bế những đứa bé quấn kỹ trong chăn ngồi lại ở hàng ghế đầu. Trên tay họ là lời những bài hát thánh ca bằng tiếng Mông phiên âm La-tinh. Đây là đội hát thánh ca của Hua Lạnh. Cứ mỗi tháng họ lại học những bài hát thánh ca mới để hát vào những buổi lễ. Những thiếu phụ Mông chỉ độ ngần 20 tuổi, nhưng họ tuồng như mất hẳn vẻ thanh xuân vì sinh nhiều con, sống biệt lập và ít giao du với bên ngoài.

Trên bức tường gỗ trong nhà thờ có treo những bức tranh vẽ mô phỏng cuộc sống sau cái chết ở trên thiên đàng theo thuyết giảng của nhóm đạo này. Bức vẽ hình một vùng đất có nhà lầu xe hơi treo lửng lơ trên giò, những đoàn người từ tha ma đạo rồng rắn nhau lên thẳng vùng đất thiên đàng. Những ai không có đạo thì xuống địa ngục. Không biết có bao nhiêu đứa ở Hua Lạnh tin vào những bức vẽ khờ khạo này để an nhiên với cuộc sống thực tại nghèo đói, mù thông báo. Do không nói tiếng phổ biến nên giao tế giữa chúng tôi và họ phải phê duyệt thông dịch từ cán bộ Biên phòng cắm bản.

Những câu giải đáp bao giờ cũng dè dặt, e sợ. Khi chúng tôi ra về, tiếng hát thánh ca vẫn còn dặt dìu trong đêm. Ngạc nhiên hơn nữa là tiếng hát đó không chỉ vang lên ở nhà thờ. Khi ngang qua một ngôi nhà cuối bản, chúng tôi ngỡ ngàng khi thấy một thiếu nữ Mông ngồi trong nhà đang hát thánh ca một mình. Cô gái hát và cầm điện thoại để ghi âm lại tiếng hát của mình. Tay kia cầm cuốn sổ tay có chép lời bài hát. Bên trong ngôi nhà la liệt những bó bông chít mà chủ nhân vừa đi rừng mang về hồi chiều. Đây là những thứ mang lại thu nhập chính cho gia đình đông nhân khẩu này. Chúng tôi hỏi bà chủ nhà, mẹ của cô gái đứng ở cửa: "Con gái bác đang hát phải không?". Bà chủ Mùa Thị Gênh bảo, con gái bà ngày nào cũng thắp đèn học hát thánh ca như vậy, ban ngày thì đi rừng hái bông chít về bán.


Những đàn bà ở Hua Lạnh đang tập hát thánh ca.

Một tiếng buổi tối của mỗi ngày, khi tắt nắng, tiếng hát thánh ca tuồng như đã làm Hua Lạnh sống lại. Bít tất như hòa âm làm một, bản làng khác hẳn với những lặng im đáng sợ của cả một ngày. Tôi chợt nhớ câu nói của một danh nhân: "Khi con người ta cất tiếng hát, tôi tin rằng họ đang sống". Tiếng chó sủa, trẻ khóc, người lớn nói lao xao hiện nay mới nghe rõ. Toàn bộ những lề thói sinh hoạt đó là do cuộc sống thu hẹp trước thời cục, trong khi đó lại sùng tín cực đoan vào tôn giáo mang lại.

Và sáng hôm sau, cuộc trò chuyện với Trưởng thôn Vừ Gạ Sênh đã làm những băn khoăn của tôi vụt trở thành rất rõ ràng. Nếu biết trước được thông báo ông Sênh cho hay rằng, Hua Lạnh vẫn thẳng tính bị sói hoang và thú rừng quấy nhiễu vào ban đêm, hẳn chúng tôi đã không dám tương hỗ trong bản cả buổi tối như thế.

Kỳ II: Đi tìm niềm tin

Trương Thúy Hằng

Email Print Góp ý